

Nga
Nga came to the U.S. from Saigon, Vietnam, seeking a brighter future for her two young sons. Forty years later, she continues to give back to the Oakland community that embraced her, proudly serving on AHS’ Patient Leadership Council since 2017.
ROOTS & BEGINNINGS
Interviewer: Cô có thể nói về nhà hay quê của cô như sao? Hồi xưa Sài Gòn như sao?
Could you describe what your home or hometown was like? How was Saigon in the past?
Nga: Hồi xưa lúc cô còn ở Việt Nam thì ba cô mất từ lúc cô 13 tuổi. Rồi cô ở với lại má và mấy anh mấy chị. Rồi cho tới lớn lên đi học xong rồi mới đi làm.
When I was still in Vietnam, my dad passed away when I was 13 years old. I lived with my mom and older brothers and sisters. I grew up and finished school, then I started to work.
Interviewer: Cô thứ mấy?
What number are you?
Nga: Cô là út.
I’m the youngest.
Interviewer: Út ha. Cháu cũng là út. Gia đình có bao nhiêu anh em?
You’re the youngest. I’m also the youngest. How many siblings did you have?
Nga: Ba cô thì có hai vợ. Người trước thì mất rồi thì bà cô mới cưới má cô. Ba cô lớn hơn má cô tới 24 tuổi lặng. Thành ra tổng cộng gia đình cô… cô là út… tất cả là 14 người.
My dad had two wives. The first wife passed away and he married my mom. My dad was older than my mom by 24 years. So in total my family had… I am the youngest… 14 people.
Interviewer: Hồi xưa cô làm cái gì? Hồi mà ở Sài Gòn.
What did you do in the past? When you were in Saigon.
Nga: Hồi lúc mà cô học xong high school, cô có xin đi học chương trình IBM, computers. Lúc đó tại cô mới vừa xong trung học thành ra cô xin đó. Vô làm cái gì gọi bằng IBM Keypunch (?). Mình đánh vô rồi lúc đó nó có cái thẻ như vầy nè, thẻ đục đục đục, rồi từ đó mới đem vô máy trong kia nó mới bắt đầu mới ra, mới in ra. Chứ không phải như bây giờ mà làm xong lấy ra vậy đó.
When I finished high school, I applied to study at an IBM program, like computers. At the time because I just finished high school I applied to that. I trained to do this work called IBM Keypunch. At the time there were these cards that you punched, the cards when duc duc duc, and from there you had to bring it to another machine for it to come out, for it to print. It’s not like nowadays that it comes out right away. They call it keypunch.
Interviewer: Keypunch. Rồi cô làm cái việc làm đó bao nhiêu lâu?
Keypunch. And how long did you do that work?
Nga: Không, cô học xong cái đó rồi cô chưa kiếm được việc làm.
No, I studied that but I wasn’t able to find a job.
Nga: Rồi cô mới làm cho quân đội Mỹ, việc trong warehouse. Nó bán đồ giống như là Costco vậy đó. Giống vậy đó. Rồi những cái cơ quan của Mỹ, quân đội, nó lại nó mới order đó nó mới đem về cho đám gọi là PX (?).
So I started working for the U.S. army, working in a warehouse. They sold things like Costco. Like that. And the American agencies, the U.S. army, would order products and bring them to a group called PX (?).
Interviewer: Đồ gì?
What kind of things?
Nga: Đồ đủ hết. Đồ ăn, rồi đồng hồ, rồi hột xoàn, rồi thuốc. Giống như là trong Costco có gì là có ở đó.
All kinds of things. Food, watches, diamonds, medicine. Like whatever Costco has, they had.
Interviewer: Coi như là cô làm ở đó bán đồ ha?
Did you sell stuff there?
Nga: Làm đó coi như là cái nhà kho, rồi mấy cái chỗ này nó lại nó order soda, chỗ này nó order thuốc, nó order radio. Nhưng mà cô làm trong phòng kế toán.
It was like a storage house. Places would order soda, others would order medicine, or radio. But I worked in the accounting room.
Interviewer: Rồi cô làm ở đó tới lúc cô qua Mỹ ha?
Did you work there until you came to the U.S.?
Nga: Dạ không. Cô làm có được một năm mấy thì Mỹ lúc đó nó sắp sửa… năm ‘71-72… nó sắp sửa rút về Mỹ. Lúc đó ở trong Sài Gòn, cái chỗ mà IBM corporation đó, nó mới cho cô việc làm. Cô mới trở về Sài Gòn cô làm.
No. I worked there for one year. At the time, the U.S. was about to… in 1971-72… it was about to withdraw back to the U.S. At the time in Saigon, IBM corporation gave me a job. So I returned to Saigon to work.
Interviewer: Oh so cái warehouse là ở đâu?
Oh so where was the warehouse?
Nga: Ở Nha Trang.
In Nha Trang.
Interviewer: Rồi xong cô làm ở IBM bao nhiêu lâu?
So how long did you work at IBM?
Nga: Cô làm cho đến cuối năm ‘74, thì lúc đó Mỹ nó lại rút lại nữa. Cô làm cái đó cũng là cơ quan Mỹ. Rồi xong rồi nó rút về thành ra nó cho cô nghỉ. Cô nghĩ nó thâu gọn lại, tới lúc gọi là giải phóng năm 75 tháng 3, chỗ đó nó dẹp đi, nó dọn đi. Nhưng mà cô nghĩ trước đó hồi như mấy tháng tài gì nó đóng cửa, nó cho nghỉ bớt.
I worked there until the end of 1974, when the U.S. was going to withdraw completely. The place I worked at was also an American agency. It was about to withdraw so they started laying people off. I think they were winding down until what they call “liberation” in March 1975, they closed and moved away. But I quit a few months before doors closed because they were letting people go.
JOURNEY TO THE UNITED STATES
Interviewer: Cô có thể nói về trải nghiệm cô qua Mỹ như sao không? Hồi xưa cô có đi vượt biên không?
Can you share about your experience coming to America?
Nga: Có.
Yes.
Interviewer: Cô đi năm nào?
What year did you go?
Nga: Hồi năm 79 thì cô đi, rồi xong tính cách là nhà nước cho đi. Vượt biên mà nhà nước cho đi. Mình phải đóng tiền cho nhà nước. Chương trình nó gọi là… cô quên cái chữ đỏ ra sao nhưng mà mình đi. Mình trả tiền cho nhà nước rồi nhà nước cho mình đi. Tất cả là có ba chuyến mà nhà nước cho đóng tiền để mà đi. Nước Việt Nam. Hai chuyến đi được, còn chuyến của cô thì ở bên Mỹ này nói Việt Nam xuất cảnh người bắt họ pháp. Thành ra cái chuyện của cô phải trở lại. Tàu đông lắm. Tàu của cô… từ cái tàu nhỏ nó đưa ra tàu lớn… tàu lớn có cô nhớ không lầm là bốn năm ngàn người. Tại gì mình đóng tiền mình đi, nó cho mình đi, đi công khai. Thành ra đi đông lắm.
I went in 1979, and the government let us go. We escaped but the government let us go. We had to pay money to the government. The program was called… I forgot the word but we went. We paid the government and they let us go. Altogether there were three trips that the government allowed us to pay to go. The Vietnamese government. There were two trips that went first, but for my trip, the United States said that Vietnam was illegally exporting people. So my ship had to return. The ship was very crowded. My ship… we went from a small boat to get to the big ship… the big ship if I remember correctly had 4-5 thousand people. Because we had to pay to go, they let us go, so we went publicly. So it was very crowded.
Interviewer: This was allowed by the communist government.
Cái này là chính phủ cộng sản cho đi ha?
Nga: Dạ chính phủ Việt Nam, chính phủ cộng sản cho đi. Lúc đó nó bài người Hoa. Người Hoa là nó cho đồng tiền đi. Năm đó nó vậy đó.
Yes, the Vietnamese government, the communist government let us go. It was for Hoa [ethnically Chinese] people. If you were Hoa, they let you pay to go. It was like that that year.
Interviewer: Bốn năm ngàn người đó ai cũng phải đóng tiền mới lên cái tàu đó được?
Those 4-5 thousand people all had to pay in order to go on the ship?
Nga: Dạ, dạ.
Yes, yes.
Interviewer: Cô có nhỏ khoảng bao nhiêu tiền không?
Do you remember approximately how much?
Nga: Hồi xưa nó tính bằng vàng. Thì một người mà 12 tuổi trở xuống thì không có đóng. Mà 12 tuổi tôi 18 tuổi thì… tại vì cô không có con tuổi đó cho nên cô không rành. Nhưng mà cái này giấy tờ của ông anh chồng ông lo. Thành ra cứ đưa tiền cho ông, ông lo. Còn người lớn như cô với ông chồng cô là một người đóng là bốn lượng vàng.
Back then they measured in gold. If you were 12 and under then you didn’t have to pay. If you were 12-18 years old then… because I didn’t have children that age I’m not too familiar. But all this paperwork was taken care of by my brother-in-law. So we gave him money and he took care of it. Adults like me and my husband were each 4 taels of gold.
Interviewer: Rồi lúc cô đi là có đi với chồng cô ha?
When you left, did you go with your husband?
Nga: Ông chồng với lại thằng con. Lúc đó nó mới 5 tuổi thành ra cô với lại ông chồng đóng thoi. Nó không cần đóng tại vì nó dưới mười hai tuổi.
My husband and my son. He was 5 years old at the time so only my husband and I had to pay. He didn’t need to pay because he was under 12 years old.
Interviewer: Cô nói cô phải trở lại ha?
You said you had to return?
Nga: Dạ trở lại trong đất liền.
Yes, return to land.
Interviewer: Ở bao nhiêu lâu?
How long did you stay?
Nga: Cô ở trên tàu là 41 ngày.
I was on the boat for 41 days.
Interviewer: Trong 41 ngày đó có làm cái gì?
What did you do in those 41 days?
Nga: Đâu có làm gì. Ngày nó cũng cho mình ăn hai buổi. Cháo thì nó cho một người một chén vậy nè, rồi có khi một chút xíu bánh mì. Một buổi ăn chén cháo hoặc chút xíu bánh mì vậy đó.
I didn’t do anything. Every day they gave us 2 meals. They would give everyone a bowl of porridge, or sometimes a little bit of bread. For one meal you’d either eat porridge or a little bread.
Interviewer: Rồi nó có nói gì với cô… chừng nào sẽ đi hay là không?
Did they say anything to you… when you’d leave or anything like that?
Nga: Trên tàu nó mới thông báo. Tại vì nó chạy vòng vòng ở biển, cũng còn thấy Việt Nam. Nó cho mình ra cái tàu đó rồi đó thì mình ở trong tàu đó đâu có gì đâu mà làm. Rồi đi vòng vòng, mình xin hoạt trong đó. Gần tới ngày về nó nói là bên Mỹ nói là Việt Nam xuất cảnh người bắt hợp pháp. Còn người ta đi vượt biên thì đóng tiền chỗ ghe người ta lén người ta đi. Còn cái này đi công khai thành ra nó không cho đi. Nhưng mà ông đó, họ nói là bây giờ, về đi, vẻ trở lại đất liền đi. Rồi ai có thân nhân mã ở nước ngoài bảo lãnh thì nó sẽ cho đi. Mỹ nó hứa như vậy.
They didn’t announce anything until we were on the boat. Because they were just circling around at sea, we were still able to see Vietnam. We went around and around, and just did things on the ship. When it was almost time to return they told us that America said Vietnam was illegally exporting people. Some people who left by boat just paid at their boats and secretly escaped. But this was all public so they didn’t let us go. But they told us to return to land and if anyone had any relatives abroad, then they can sponsor you and you can go. America promised this.
Interviewer: Rồi sao?
And then?
Nga: Rồi xong rồi cô mới ở 41 ngày rồi nó cho vô ở đất liền trong một khu vậy đó. Nhà dân thì nó cất một cái nhà lá. Một nhà nọ cho một hộ vô ở trong đó. Rồi ai mà có thân nhân ở Sài Gòn hoặc ở tỉnh nào mà vô lãnh về thì họ cho đi về. Tại vì cô biết không? Ăn đói quá. Người nào người nấy ốm nhom. Cho nên chính phủ nó muốn giữ mình ở đó cho mình ăn uống cho mình tròn trịa trở lại chút rồi nó mới cho mình về. Chính phủ Việt Nam nó cũng sợ là đi ra mà thấy 41 ngày mà ăn có chút vậy thôi, đi lên đất liền rồi ăn uống đàng hoàng trở lại đi rồi nó giải quyết cho về. Tại cái này mình đi đóng tiền mà cho nên nó không phải bắt ở tù. Nhưng mà nó muốn mình hầu sức khỏe rồi mới đi về.
Then I stayed for 41 days and then they let us return to land in this area. They built straw houses for people. Each house had like one family. If anyone had relatives in Saigon or another province, they could come pick them up and go home. Because you know what? We were all hungry. Everyone was very skinny. So the government wanted to keep us there so we could eat and become fatter before letting us go home. The Vietnamese government was afraid about keeping us for 41 days without a lot of food. So they told us to go back to land, eat properly, and they would help us go home. Because we paid them to go, it wasn’t like they were keeping us in prison. But they wanted us to get healthy before we could go home.
Nga: Ở trên tàu thì cô biết là có nhiều người già đi, rồi cung đối. Không có đồ ăn nhiều cũng đối. Cô nhớ là chết 14 người. Mà trên đó mấy người đó người sinh 14 người luôn.
I know that there were a lot of elders on the ship and they were hungry. There wasn’t a lot of food so they starved. I remember that 14 people died. But people on the boat also gave birth to 14 people.
Interviewer: Có người có bầu rồi đẻ trên tàu ha?
There were pregnant people who gave birth on the ship?
Nga: Dạ đẻ trên tàu luôn.
Yes, gave birth on the ship.
Interviewer: Mà tại sao ở tới 41 ngày? Lâu quá ha.
But why 41 days? So long.
Nga: Tại vì chờ chính phủ Mỹ cho vô. Việt Nam giờ nó lấy tiền rồi thành ra nó muốn điều đình với Thái Lan hay mấy chỗ tiếp nhận máy trạm đầu tiên. Bên đó họ nói không được, họ không nhận tại vì nhiều quá. Phải chi mà người ta đi vượt biên một lần có mấy trăm người. Còn cái này tới mấy ngàn người.
Because we were waiting for the American government to let us in. Vietnam already took our money so they wanted to negotiate with Thailand and other countries that were accepting at first. They said it’s not possible, they can’t accept us because there’s too many people. For boats, there are hundreds of people at a time. But in this case there were thousands of people.
[24:21]
Interviewer: Hai chuyến đầu đi Thái Lan ha?
The first two ships went to Thailand?
Nga: Một chuyến đi qua Hồng Kông. Chuyến thứ hai đi qua Philippines. Chị chồng của cô đi cái chuyện thứ hai, đi qua Philippines.
One went to Hong Kong.
The second ship went to the Philippines. My husband’s sister was on the second ship to the Philippines.
Interviewer: Rồi sau đó thì sao? Cô về Sài Gòn ha?
What happened next? You returned to Saigon?
Nga: Dạ, cô về Sài Gòn trở lại. Sau đó cô về Sài Gòn thì cô lên cái chỗ, không phải tòa đại sứ, mà là cái chỗ mà làm giấy bảo lãnh. Rồi cô mới làm đơn. Chị của cô mà đi qua Philippines… chị cũng ở trên tàu sáu tháng… qua tới Philippines chị nói chị ở trên tàu sáu tháng. Chưa có ai nhận, chưa
có nước nào nhận. Chị nói. Ở trên tàu thôi chứ chưa xuống đất liền. Ở trên tàu sáu tháng rồi Mỹ mới cho vô.
Yes, I went back to Saigon again. After I went back to Saigon, I went to a place, not the embassy, but a place where you did the sponsorship paperwork. And I applied. My sister-in-law who went to the Philippines… she was on her ship for 6 months. She said that when they got to the Philippines they had to stay on the boat for 6 months. Nobody was accepting them, no country was accepting them. She told us that. She stayed on the boat and wasn’t able to go to land. They were on the boat for 6 months until America let them in.
Interviewer: So chị của cô…
So your sister…
Nga: Chị của cô, chị của ông chồng.
My sister, my husband’s sister.
Interviewer: Chị của cô đã qua Mỹ.
Your sister already came to America.
Nga: Qua Mỹ.
Came to America.
Interviewer: Rồi bảo lãnh cô.
And sponsored you.
Nga: Bảo lãnh.
Yes sponsored.
Interviewer: Năm cô đi qua Mỹ là năm nào?
What year did you come to America?
Nga: Cô về cô làm giấy xong. Rồi cái passport visa trục trặc một cái là cái hình của thằng con bị mờ. Thành ra, trên chỗ xuất cảnh nó mới gọi. Thành ra, tới năm 84 cô mới đi. Không có bị cái đó thì năm 81-82 cô đi rồi. Tại một cái này nữa nè. Lúc mà cô đóng tiền đi, nhà của cô là ở Sài Gòn,
mà ông anh chồng mới về tỉnh Bến Tre, ông mua cái hộ khẩu ở đó đặng chuyển tụi này xuống dưới đặng mà đi nó rẻ hơn. Còn nếu mà lấy địa chỉ ở Sài Gòn thì đi tới mười mấy luồng một người.
I went back and I finished the paperwork. Then there was an issue with the visa, my son’s photo was blurry. So the office called. So I didn’t go until 1984. If it wasn’t for that issue, I would have left 1981-1982. Also this. When we paid, my home was in Saigon, but my brother-in-law went to Ben Tre province. He bought a household registration there so we can go down there and leave [the country] at a cheaper rate. But if we used the Saigon address then it would have been 10+ taels for each person.
Interviewer: Mình nói quê mình ở Bến Tre thì nó rẻ hơn?
If you said your hometown was Ben Tre then it’s cheaper?
Nga: Rẻ hơn. Còn nếu mà tại Sài Gòn đi, như người chị của cô, thì nó tới 13 lượng vàng, tức là cũng gần 20 ounces. Nhờ mua địa chỉ ở dưới thành ra cô đóng hai vợ chồng có tám cây thôi. Cheaper. But if you left from Saigon, like my sister-in-law, then it was 13 taels, which is about 20 ounces [?]. Because we bought the address down there, my husband and I only paid 8.
AHS & COMMUNITY CARE
Interviewer: Bây giờ AHS làm sao giúp cô giữ gìn sức khỏe?
Now how does AHS help you maintain your health?
Nga: Thì bác sĩ hẹn định kỳ, rồi coi mình bệnh gì thì bác sĩ cho thuốc. Rồi mình có cái gì thì bác sĩ giới thiệu đi nhà thương. Thí dụ như đi soi ruột, rồi đi chụp hình ngực, rồi nếu xương mình yếu, bác sĩ giới thiệu đi chụp hình x-ray. Coi sao, cho mình uống thuốc. Á Châu [AHS] rất là tốt, bác sĩ thật là tốt.
Doctors schedule regular appointments, and if we are sick they’ll give us medicine. If there’s anything then the doctor will refer us to a hospital. For example, for a colonoscopy or mammogram or if our bones are weak, then they will recommend an x-ray. See what happens and give us medicine. AHS is really great, the doctors are really great.
Interviewer: Những người mới di cư qua Mỹ bây giờ, cô có đề nghị họ tới Asian Health Services không?
For people immigrating to the United States now, would you recommend that they go to Asian Health Services?
Nga: Có, tại vì đi họp trong hội PLC ở trong đó nó thí dụ như kêu mình đi bầu cử tổng thống, nó kêu mình làm cái này. Những người như mấy cô mới qua lợi đến Á Châu rất là tốt tại vì bản thân cô ở Á Châu rất là tốt thành ra cô cũng với thiệu lại đó. Đi chỗ này tốt thật tốt. Muốn đi đâu thì đi mà tui nghỉ chỗ này tốt.
Yes, because joining PLC they will, for example, tell us to go vote in the presidential election, tell us to do this and that. For people like me who just came, coming to AHS is really great because I personally find AHS really great so I would recommend it. Going here is really really great. You can go wherever you want, but I think this place is great.
Interviewer: Cô có thấy hãnh diện về cuộc sống của mình ở bên Mỹ không?
Are you proud of your life in America?
Nga: Có chứ. Thấy tự do, mình muốn làm gì mình làm. Mình có sức mình muốn làm ra tiền.
Of course. It feels free, I can do whatever I want. If you have the strength, you can make money.
Nga: Tốt nhất là vấn đề sức khỏe. Cô thấy ở đây giúp cho mình về sức khỏe, có trung tâm y tế Á Châu giúp cho mình, rồi chính phủ giúp. Rồi có cái hội cho người già Hong Fook giúp cho mình vui chơi trong cái tuổi già của mình. Vui lắm.
The best thing is the topic of health. I feel like here they help us with our health. There’s Asian Health Services helping us, and the government helps. Then there’s organizations for elders like Hong Fook helping us enjoy our old age. It’s very fun.
Nga: Mà cái sức khỏe quan trọng. Cô thấy họ giúp cho mình. Nếu mình không có tiền chính phủ vẫn giúp. Hay mình có tiền thì mình phải trả. Còn không có tiền thì chính phủ giúp, chứ không phải như là ở bên mấy cái nước như Việt Nam cô đi vô cô phải đóng tiền trước cô mới được ấy. Còn cô không có tiền thì thôi cô đi về chịu chết. Sức khỏe ở đây hạng nhất.
But health is important. I feel they help us. If you don’t have money, the government will still help you. Or if you have money, you have to pay. But if you don’t have money, the government will help, unlike in countries like Vietnam, where you have to pay first. If you don’t have money, then you have to go home and accept death. Health care here is number one.
Interviewer: Cô có nghĩ là mình phải bảo vệ mấy cái chương trình đó cho những người di cư mới không? Ai mà mới qua Mỹ mình có nên giúp đỡ họ không?
Do you think we need to protect these programs? Anyone who is just coming to America, should we help them?
Nga: Nghĩ là cần, rất là cần.
I think it’s necessary, very necessary.
Interviewer: Tại sao quan trọng?
Why is it important?
Nga: Tại vì nếu không có chương trình giúp đỡ, người ta bệnh, rồi tiền đâu người ta đi khám? Because if there aren’t these programs, when people are sick, where will they get the money to go to the doctor?

Thao Le Thanh
Thao Le Thanh is an artist who lives on unceded Haudenosaunee land.